Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Lịch sử mẫu xe huyền được thoại Mini

Mini là biểu tượng xe hơi nhỏ của những năm 1960, được sinh sản bởi hãng xe Anh quốc BMC bắt đầu từ năm 1959 và là chiếc xe trước nhất sở hữu hệ thống truyền động trước. Giải pháp tần tiện không gian đã ảnh hưởng đến cả thảy các nhà sinh sản vào mọi thời khắc, và ngày nay, FWD là hệ thống truyền động phổ thông nhất. MINI mới được ra mắt vào năm 2001 để thay thế chiếc xe huyền thoại bằng những cập nhật cho thế kỷ 21.

Thiết kế mang tính cách mệnh của Mini tạo ra bởi Sir Alec Issigonis (1906–1988), và được coi như một tầm nhìn chiến lược trong giao thông tải công nghiệp lúc bấy giờ. Ban đầu, người ta dự kiến sản xuất Mini như một chiếc xe giá cả phải chăng để đáp ứng cuộc khủng hoảng dầu mỏ. Trong thời gian đó, nó được sản xuất hàng loạt tại nhà máy Cowley ở Anh quốc và sau đó là Úc, Chile, Italia, Bồ Đào Nha, Nam Phi, U-ru-oay và Vê-nê-zuê-la.

Chân dung Alec Issigonis

Chiếc Mini trước nhất, được gọi là Mk I có ba lần nâng cấp quan yếu: Mk II, Clubman và Mk III. Các phiên bản thể thao hơn – Mini Cooper và Mini Cooper S là các biến thể xe đua vô cùng thành công đã từng 3 lần chiến thắng trên đường chạy Monte Carlo.

Thiết kế và phát triển

Mini được thiết kế như kết quả của cuộc khủng hoảng kênh đào Suez năm 1956, làm giảm nguồn cung cấp dầu và khiến chính phủ Anh đau đầu trong vấn đề phân bổ nhiên liệu. Rõ ràng, doanh số của những dòng xe cỡ lớn cùng với lưọng tiêu thụ nhiên liệu đã giảm chính là lúc để thị trường của “những chiếc xe bong bóng” bùng nổ. BMC nhận ra rằng họ phải chóng vánh sinh sản một chiếc xe nhỏ.

Issigonis, với những thành công trong việc thiết kế xe hơi được phó nhiệm vụ chiến lược này. Cùng với một nhóm nhỏ các nhà thiết kế, Issigonis đã phải sản xuất nguyên mẫu trước tiên trước tháng 10/1957. Chiếc xe mới sử dụng động cơ BMC 4 xi-lanh làm mát bình thường, nhưng đổi mới bằng cách lắp nằm ngang cùng với hộp số 4 cấp đặt ở bình hứng dầu và hệ thống dẫn động cầu trước.

Austin Cooper S 1964

Tất tật những chiếc xe nhỏ dẫn động cầu trước được phát triển từ những năm 1970 đều sử dụng một cấu hình hao hao. Một cải tiến khác là vị trí của bộ tản nhiệt ở phía bên trái của chiếc xe, cho nên, các quạt gió được gắn trên động cơ có thể được giữ lại, nhưng chiều quay bị đảo ngược bởi vậy nó thổi không khí vào vùng áp suất thấp thiên nhiên ở phía dưới cánh trước. Cách làm này giúp làm giảm bớt chiều dài xe, nhưng luồng khí nóng qua động cơ có thể bị bị thổi đến bộ tản nhiệt.

Một số lời đồn đoán cho rằng Issigonis đã thiết kế các hốc chứa đồ nội thất có kích thước tương ứng với chai rượu gin yêu thích của ông. Một tính năng thông minh khác là nắp khoang hành lý có bản lề ở phía dưới, thành ra xe có thể vận hành trong khi khoang này vẫn mở phòng trừ trường hợp bạn có quá nhiều thứ cần mang. Toàn bộ những kỹ thuật mới lạ sáng dạ này đã tạo nên một chiếc xe với kích thước tổng thể tối thiểu trong khi vẫn tối đa hóa được không gian cho các hành khách và hành lý.

Các cải tiến khác bao gồm việc gắn kết bộ hòa khí ở phía sau của động cơ. Chính cơ cấu này đã cho phép một bộ giảm tốc phụ giữa động cơ và hộp số để giảm tải trên hộp số cũng như ngăn chặn hiện tượng mài mòn mau chóng. Động cơ 848 cc cung cấp tốc độ tiệt cho những chiếc xe kiểu này, với véc tơ vận tốc tức thời tối đa có thể lên đến 115.2 km/h.

Mặc dầu thiết kế của Mini có cỗi nguồn thực dụng, song diện mạo của mẫu xe cổ điển này đã trở thành một hình ảnh tượng trưng dưới bàn tay của Rover Group – người kế tục BMC cũng như được đăng ký thương hiệu vào đầu những năm 1990.

MK I (1959 -1967)

Chiếc Mini phiên bản sản xuất trước tiên trình làng vào tháng 4/1959, và trước tháng 6, vài nghìn chiếc xe đã sẵn sàng xuất xưởng. Tên “Mini” không được dùng ngay khi bắt đầu sản xuất. Các tài liệu lăng xê lúc đó thường nhắc đến chiếc xe này bằng cái tên “SE7EN”.

Tuy nhiên, một mẫu xe Morris đã nổi tiếng vào thời điểm này là Minor, trong tiếng Latin có nghĩa “nhỏ hơn”. Do vậy, để nhấn mạnh hơn nữa về kích tấc của chiếc xe, quyết định đổi tên đã được đưa ra bằng việc sử dụng tên viết tắt của mực Latin “minimus”, có tức thị nhỏ nhất.

Mẫu xe Mk I Mini 1963

Vào năm 1964, MK I nhận một thiết kế hệ thống treo mới có tên gọi Hydrolastic. Thay đổi này tạo ra một chuyến đi nhẹ nhàng hơn nhưng lại bị chỉ trích bởi nhiều người bởi hoài tốn kém và làm đổi thay khả năng xử lý của chiếc xe. Bắt đầu từ năm 1971, hệ thống treo cao su ban sơ đã trở lại và được sử dụng cho đến khi kết thúc sinh sản.

Doanh số bán hàng không quá hứa hẹn sau khi ra mắt nhưng Mini đã trở nên một chiếc xe thành công trong thập niên 60 với tổng số 1.190.000 chiếc Mk I được sản xuất.

Tuy thế, người ta vẫn dấy lên một tin đồn rằng, Mk I không mang lại lợi nhuận cho BMC, vị nó được bán với giá thấp hơn phí sinh sản để có thể cạnh tranh trên thị trường. Một số người thậm chí còn nói rằng, đó là căn nguyên do sơ sót kế toán. Tuy nhiên, có một điều vững chắc, MK I đã tìm được một chỗ đứng riêng trong lòng công chúng vào thời điểm này.

The Mk II – III (1968-1976)

Vào cuối thập niên 60, Issigonis đã làm việc để đưa ra một sự đổi thay cho chiếc Mini ban đầu. Mẫu xe mới dự định là sẽ ngắn hơn nhưng mạnh mẽ hơn so với Mk I, tuy nhiên do các quyết định quản lý tại BMC, chiếc xe đã không được xây dựng. Thay vì tung ra mẫu xe giống như ý tưởng trên, hãng xe này đã trang bị lưới tản nhiệt phía trước tái thiết kế và một cửa sổ phía sau lớn hơn cho phiên bản kế thừa của Mk I . Và kết quả là, 429 nghìn chiếc Mini Mk II đã được sinh sản.

Mk II trở lên nức tiếng bằng việc trở thành ngôi sao trong bộ phim “ The Italian Job” với các màn rượt đuổi nghẹt thở trên ba chiếc Mini được điều khiển bởi một băng trộm. Bộ phim đó đã được tái hiện lại trong năm 2003 và sử dụng mẫu xe MINI mới do BMW sinh sản.

Mini Mk III đã mang đến hàng loạt các sửa đổi thiết kế thân xe, mà quan trọng nhất là các cánh cửa lớn với bản lề che kín. Ngoài ra, hệ thống treo đã chuyển từ Hydrolastic sang cao su nhằm mục đích giảm bớt uổng. Chiếc xe cũng sở hữu cửa sổ phía sau lớn hơn.

Mk IV-VII (1976-2000)

Các đời Mk sau đó, từ MK IV cho đến MK VII đặc trưng bởi nhiều đổi thay kỹ thuật chính bao gồm hệ thống treo cao su phía trước gắn trên khung phụ vói các bu-lông hình tháp đơn, đĩa phanh 8.4 inch và vòm bánh xe plastic. Bắt đầu từ năm 1990, điểm lắp đặt động cơ được di chuyển về phía trước để chứa được động cơ 1278 cc với phiên bản bộ chế hòa khí HIF.

Trong hai thập niên 80s và 90, đã có một đôi phiên bản Mini đặc biệt được tung ra thị trường, biến chiếc xe này từ một sản phẩm đại chúng lên thành biểu tượng thời trang. Có lẽ chính vì lý do đó, BMW đã không ngại ngần khi mua lại Mini như một phần của Rover Group.

Dưới sự giám sát của BMW, Mini đã nhận được một túi khí để tuân quy định an toàn châu Âu. Trước năm 2000, Rover Group vẫn đang hứng chịu những thua lỗ nặng nề, BMW đã quyết định bán MG, Rover, Land Rover và chỉ giữ lại thương hiệu Mini để sản xuất một mẫu xe mới với cái tên này.

Chiếc Mini Mk VII chung cuộc đã được sản xuất vào tháng 10 năm 2000, đồng thời cũng là chiếc xe rút cuộc trong tổng số 5,3 triệu chiếc được sinh sản và bán trên toàn thế giới.

BMW MINI mới ( 2000-nay)

Sau khi ngừng sản xuất mẫu xe Mini cổ điển vào năm 2000, BMW đã ban bố mẫu xe kế nhiệm Mini – và được gọi là MINI. MINI san sẻ kiến trúc truyền động trước với người tiền nhiệm, nhưng không còn là một chiếc xe giá cả phải chăng. Thêm vào đó, MINI còn được thừa hưởng yếu tố thể thao, sang trọng từ thương hiệu cao cấp BMW.

MINI Cooper 2013

Với công nghệ hàng đầu, MINI bây giờ là đích của các giáo đồ sành điệu nhưng vẫn muốn trải nghiệm niềm vui ngồi sau vô lăng. Đời mới của những MINI Hatch/ Hardtop được bán trên thị trường vào tháng 7 năm 2001 và đã tức thời thành công. Thắng lợi về mặt doanh số của MINI là chứng cớ rõ nét cho việc chiếc xe mới này hoàn toàn phù thuộc với các tiêu chuẩn của thế kỷ 21 khi mà sự thoải mái, an toàn và các nguyên tố môi trường đang càng ngày càng đòi hỏi khắt khe hơn. Đây cũng chính là động lực khiến BMW quyết định đầu tư 100 triệu USD vào nhà máy MINI ở Oxford, Anh quốc vào tháng 2 năm 2005 giúp tăng lượng sản xuất lên 20%.

Tuy nhiên, tham vọng mở mang phạm vi MINI vẫn không ngừng lại khi BMW đã ban bố một khoản đầu tư đồ sộ – 500 triệu USD vào tháng 6 năm 2011 trong vòng 3 năm cho các nhà máy tại nước Anh để mở mang MINI lên 7 mẫu xe, bao gồm những cái tên như Mini Countryman, Coupé, Roadster và Paceman…

Ngọc Điệp(TTTĐ)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét