Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Có nên điều chỉnh chính sách sinh từ 1-2 con?

 Ở tuổi cơ cấu dân số vàng gần 10 năm qua, Việt Nam đang bước vào thời kỳ của thiên hướng già hóa dân số và đứng trước nguy cơ “già nhưng chưa giàu”. GS-TS Nguyễn Đình Cử - nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề từng lớp (ĐH Kinh tế Quốc dân) - đã có những khuyến nghị nên điều chỉnh chính sách dân số cho thích hợp với bối cảnh hiện thời. 

Người cao tuổi cần được coi ngó sức khỏe ngày một đông. Ảnh: C.T.V

 Khuyến nghị điều chỉnh chính sách dân số hiện hành 

Chính sách kế hoạch hóa gia đình 50 năm qua đã tạo ra thiên hướng giảm mức sinh của Việt Nam, đặc biệt là từ nửa cuối thập niên 90 của thế kỷ trước. Năm 1970, mỗi nữ giới VN có nhàng nhàng 6,8 con; đến năm 1990 đã giảm xuống còn 3,1 con và hiện thời là 2 con. Một số tỉnh phía Nam, mức sinh đang có chiều hướng xuống dưới ngưỡng 2 con/nữ giới. Năm 2011, tại TPHCM là 1,3 con/nữ giới.

 quan điểm chuyên gia về dân số 

 Ông Nguyễn Văn Tiên - Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề từng lớp của Quốc hội:  Vẫn nên duy trì mô hình gia đình có ít con.  “Quy mô dân số VN còn khá lớn, cần tránh những nguy cơ có thể tăng và bùng nổ. Mặt khác, tỉ lệ người dân sống ở các vùng nông thôn còn cao - nơi mà ở đó nhiều người vẫn còn nặng tâm lý muốn sinh nhiều con. vì vậy, trong bối cảnh hiện thời, theo tôi vẫn nên duy trì thực hành mô hình gia đình ít con, song song vận động và có chính sách khuyến khích mỗi gia đình chỉ nên có từ 1 - 2 con”.
 
Ông Nguyễn Văn Tân - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS - KHHGĐ: Khuyến nghị chính sách dân số cần khôn cùng cẩn trọng.   
“Kinh nghiệm một số nước cho thấy, khi đã giảm sinh sâu thì rất khó nâng trở lại mức sinh thay thế. Tuy nhiên, ở VN hiện thời có nên vận dụng chính sách khuyến khích sinh nở, thậm chí ở những nơi hiện đang có mức sinh thấp hay không, đó là một câu hỏi không dễ giải đáp. Dù biết rằng nếu để muộn thì lặp lại bài học của các nhà nước khác đã gặp, nhưng tiến hành nhanh quá cũng dở. Tổng cục DS - KHHGĐ đang tập trung Ý kiến các chuyên gia, dữ liệu để có thể phân tích, xử lý một cách thận trọng trước khi đưa ra khuyến cáo về vấn đề này. Ý kiến của chuyên gia về việc khuyến sinh ở một số nơi mới chỉ là suy nghĩ ban đầu. Dù một số tỉnh/TP đúng là có mức sinh thấp hơn làng nhàng cả nước, nhưng dân số là một bài toán phải tính chung cho cả nước, không thể từ một vài tỉnh, đưa thành hiện tượng trở thành phổ biến”. Nguyễn Hằng  (ghi)
 
VN đang bắt đầu bước vào thời kỳ già hóa dân số, tức là tỉ lệ dân số ở độ tuổi lao động dần giảm đi, trong khi đó người dân lại cũng có khuynh hướng ít sinh con hơn. Mức sinh thấp và nối giảm, lại trong bối cảnh chuộng con trai, điều đó sẽ làm trầm trọng hơn sự mất cân bằng giới tính khi sinh bây chừ. Năm 2009, tỉ số giới tính khi sinh là 110,6; năm 2012 đã tăng lên 112,2. Và VN đứng trước nguy cơ thừa khoảng 2 - 4 triệu nam giới trong độ tuổi hôn phối vào năm 2050. Mức giảm sinh không đồng đều, tại các tỉnh Tây Nguyên, mỗi đàn bà vẫn sinh trên 3 con, như Kon Tum vẫn là 3,45 con/đàn bà.

Bối cảnh trên đặt ra câu hỏi: Liệu có nên nối duy trì quy định mỗi cặp vợ chồng có quyền và bổn phận “sinh một hoặc hai con”? GS Cử khuyến nghị nên chuyển quy định: “Quyền và bổn phận của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân “sinh 1 hoặc 2 con” trong Pháp lệnh Dân số năm 2008, thành mục tiêu của vận động, tuyên truyền và giáo dục để người dân tự quyết định số con một cách có bổn phận. Chuyển chính sách từ cốt tử là kế hoạch hóa gia đình sang nâng cao chất lượng dân số, săn sóc sức khỏe sinh sản toàn diện.

Bài học của một số quốc gia, họ chậm chuyển hướng chính sách dân số, thường là trên 10 năm sau khi đạt “mức sinh thay thế”, nên tại các quốc gia này, mức sinh giảm sâu. Hàn Quốc, Đài Loan (TQ) bây chừ hầu như chỉ còn 1 con/đàn bà. Nhiều quốc gia ở Châu Âu và Châu Á cũng đã gặp thất bại trong gắng nâng mức sinh lên. Trong tầng lớp nhiều người già hơn người trẻ, dịp phát triển kinh tế sẽ hạn chế hơn rất nhiều. Nếu VN không có chính sách dân số ứng phó kịp thời, sẽ đối mặt với những thách thức na ná ở các quốc gia. Và trong khuynh hướng khó có thể đảo ngược này, nên có ứng xử ra sao?

 Lo nhiều hơn cho người cao tuổi 

Nước ta hiện có khoảng 9 triệu NCT. Theo dự báo khoảng năm 2035 – 2038, 20% dân số là NCT, nghĩa là chính thức ở thời đoạn dân số già. Tuy nhiên, sự chuẩn bị cho một tầng lớp có dân số già hình như còn đơn sơ cả về mặt chính sách, luật pháp, cơ sở vật chất, kỹ thuật và tâm lý tầng lớp. Vấn đề đặt ra là: Việt Nam phải làm gì để đảm bảo an sinh tầng lớp và phát huy khả năng của NCT?

Người cao tuổi rất cần được săn sóc sức khỏe.

Theo GS Cử khuyến nghị: Cần tích cực chuẩn bị thích ứng với tầng lớp “già trước khi giàu” này, sớm rà, chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện chính sách về NCT, trong đó cần nhấn mạnh việc phát triển hệ thống an sinh cho NCT, tạo điều kiện thuận tiện cho việc tầng lớp hóa thờ phụng, săn sóc và tạo việc làm cho người cao tuổi. Tuyên truyền vận động mọi người “lo cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ” cần và có thể chuyển từ hình thức “tự cung, tự cấp” săn sóc NCT sang hình thức dịch vụ săn sóc NCT, ủng hộ đa dạng hóa việc tổ chức cuộc sống cho NCT.

 Trung Quốc nới lỏng chính sách một con.  Theo dự báo của giới chuyên gia, tới năm 2050, 1/4 dân số của Trung Quốc sẽ trên 65 tuổi. Trong khi tỉ lệ người già ở một số nước đang phát triển khoảng 3% - 4% dân số, thì người già ở Trung Quốc đã lên đến 12% (khoảng 200 triệu người già). Trong nhiều năm qua, Chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng dần chính sách một con. Các hộ gia đình ở nông thôn, nếu đã có một con đầu lòng là gái, có thể được sinh thêm một con nữa. Từ năm 2000, những cặp vợ chồng nào đều là con một có thể được đẻ hai con, nhằm tránh hiện tượng 8-4-2-1, trong đó một cặp vợ chồng trẻ phải thờ phụng 4 ba má và 8 ông bà. U.M 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét